tử vi gia cát lượng

Dưới góc độ Tử vi học, sở dĩ Gia Cát Lượng có tài hô phong hoán vũ nhưng lại phải chết ở tuổi 54 là vì cung mệnh vô chính diệu. Sự nghiệp dang dở N hân vật Gia Cát Lượng sống thời Tam Quốc bên Trung Quốc là hình ảnh một quân sư đa mưu túc chí có tài ngồi trong màn Đáp gọn: "Tấn sử" có ghi lại: Năm 347 sau Công nguyên, Huân Văn Trịnh Thư hỏi một sử gia: "Gia Cát công tử có gì phi thường không?". Sử gia đáp: "Không có gì phi thường", Huấn Văn liền lộ ra vẻ kiêu ngạo. Nhà sử học dừng lại một lúc lâu và nói: "Nhưng từ khi có Gia Cát Trang mạng Trung Quốc phân tích, Bàng Thống làm như vậy trước hết nhằm bảo vệ danh dự của một nam tử hán. Thứ hai, Bàng Thống vì không muốn ảnh hưởng đến Gia Cát Lượng nên đã đẩy nguyên nhân gây ra cái chết của mình về phía Lưu Bị. Ngay trong ngày định mệnh đó Theo lá số tử vi của người phương Đông, Gia Cát Lượng là người mệnh vô chính diệu (cung mệnh không có sao chính tinh thủ chiếu). Những người mệnh vô chính diệu thì phải xét đến sự góp mặt của những sao không vong (Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không) thì mới làm rõ được tính cách của bản mệnh. Trong khi đó, giá năng lượng cao đã và đang khiến Đảng Dân chủ của ông Biden quay cuồng trước thềm cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, dự kiến diễn ra ngày 8/11. Tình hình đã trở nên tồi tệ hơn khi OPEC+ có động thái cắt giảm sản lượng vào đầu tháng 10. Nhà Trắng từng materi mtk kelas 9 semester 1 kurikulum merdeka. Cuối thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng gần như trở thành thủ lĩnh, có tiếng nói hơn cả hậu chúa Lưu Thiện. Sau khi ông mất, Lưu Thiện một lúc giết chết 3 vị đại thần khiến ai cũng nghĩ ông ngu ngốc cho đến khi biết được ẩn tình bên trong. Thời Tam Quốc, nước Thục có thể nói là vùng đất quy tụ nhân tài. Trong giai đoạn đỉnh cao nhất, có Ngọa Long tiên sinh - Gia Cát Lượng, còn có cả Ngũ Hổ thượng tướng đều tề tựu ở nước Thục. Thế nhưng, tới nửa sau của thời Tam Quốc, nhân tài nước Thục mới dần dần trở nên khan hiếm. Sau khi Lưu Bị qua đời, nước Thục về cơ bản gần như là coi Gia Cát Lượng làm thủ lĩnh. Lưu Thiện là hậu chúa của nước Thục, nhưng về cơ bản là chẳng có chút quyền lực gì. Không chỉ có vậy, khi so sánh với Gia Cát Lượng, Lưu Thiện lại càng trở nên ngu dốt hơn. Lưu Thiện không hề ngu ngốc như vẻ bề ngoài mà mọi người vẫn tưởng. Ở Trung Quốc, khi muốn khen một người nào đó thông minh, người ta thường ví người đó với Gia Cát Lượng, khi ấy người được khen chắc chắn sẽ rất vui. Nhưng khi chúng ta chửi ai đó là ngu dốt thì luôn so sánh người đó với Lưu Thiện, nói họ là “A Đấu biệt danh của Lưu Thiện không dìu dắt nổi”, như thế thì người bị chê chắc chắn sẽ tức nhảy dựng lên. Vậy tại sao hình tượng Lưu Thiện lại tồi tệ như vậy? Thực ra nguyên nhân quan trọng đó chính là Lưu Thiện sau khi đầu hàng Tào Ngụy, nói với Tư Mã Chiêu một câu “Ở đây rất vui, ta không còn nhớ nhung gì về nước Thục nữa”. Việc này đã trở thành chuyện cười thiên cổ. Nhưng chúng ta hãy nghĩ kỹ xem, nếu như mà Lưu Thiện đang ở trong tình cảnh như thế mà không biết đường cúi đầu, vậy thì ông ta mới thực sự là ngu ngốc. Thực ra Gia Cát Lượng từng đánh giá về con người Lưu Thiện, trong cuốn “Tam Quốc chí - Xác Vy truyện” có ghi chép “Triều đình Lưu Thiện năm nay 18, khôi ngô tuấn tú, thông minh, yêu thương thuộc hạ, người dưới. Người trong thiên hạ ái mộ Hán Thất, muốn cùng vua ứng thiên thuận dân, phò tá minh chủ, lập công phục hưng, lưu danh trong cuốn trúc bạch”. Lưu Thiện thực ra không hề ngu ngốc, thậm chí có thể nói là người vô cùng sáng suốt. Chính vì thế, sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiện mới có thể tiếp tục trấn giữ được nước Thục thêm hơn 30 năm. Hơn nữa, Lưu Thiện cũng không hề nhu nhược như trong những bộ phim truyền hình diễn tả. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiện đã lập tức giết 3 vị đại thần chỉ trong nháy mắt cực kỳ quyết đoán. Hãy xem 3 vị đại thần đó là ai và nguyên nhân gì khiến Lưu Thiện kiên quyết ra tay giết họ. Người đầu tiên ông hạ lệnh giết là Lý Mạc, người này cũng được coi là lão thần của Thục Hán, tuy nhiên quả thực lại là một phần tử thừa cơ triệt để từ đầu đến cuối. Năm ấy, khi Lưu Bị tiến vào Ích Châu, Lý Mạc được ra lệnh nhận chức ở Ích Châu. Trong một lần Lưu Bị tụ họp với thuộc hạ, để thể hiện bản thân, Lý Mạc lại chỉ trích Lưu Bị cướp đoạt Ích Châu là sai trái với những lời lẽ “nhân nghĩa đạo đức”. Khi ấy Lưu Bị liền hỏi lại rằng “Thế tại sao ngươi không đi giúp Lưu Chương?”. Lý Mạc nói cái gì mà “thực lực không đủ”. Lúc ấy, Lưu Bị suýt chút nữa là giết hắn ta, cũng may là Gia Cát Lượng đứng ra hòa giải, như thế mới giúp Lý Mạc thoát khỏi một kiếp nạn. Nhưng Lý Mạc lại chẳng hề có một chút gì gọi là cảm kích, thậm chí còn lấy oán báo ơn. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lý Mạc liền dâng tấu lên Lưu Thiện nói xấu, hủy hoại thanh danh của Gia Cát Lượng, còn nói muốn nhanh chóng tiêu diệt loại bỏ thế lực còn sót lại của Gia Cát Lượng. Lưu Thiện vô cùng phẫn nộ, thế là phái người bắt giữ Lý Mạc, đồng thời giết tên tiểu nhân này. Người thứ hai ông giết đó chính là Lưu Diễm, người này cũng là một lão thần, từng đảm nhiệm Xa Kỳ tướng quân, từng lập những công lao hiển hách. Tuy nhiên, người này tự cho là mình lập được công lớn, không hề coi Lưu Thiện ra gì, thậm chí còn nói những lời khiếm nhã, ô uế. Hắn ép vợ mình thừa nhận có gian tình với Lưu Thiện, không những dùng đế giày đánh Hồ Thị ác liệt mà còn dùng một tờ hưu thư giống như đơn ly hôn ngày nay để bỏ vợ mình. Sau này Hồ Thị kiện cáo lên Lưu Thiện, Lưu Thiện vô cùng tức giận, hạ lệnh giết chết Lưu Diễm. Hành động này của Lưu Thiện khiến những kẻ khác không còn dám nghĩ rằng ông là một kẻ dễ bắt nạt nữa. Người thứ ba là Dương Nghị, người này trong nửa sau thời Tam Quốc có thể nói là cánh tay đắc lực của Gia Cát Lượng, là người vô cùng có tài năng. Tuy nhiên, người này lòng dạ cực kỳ hẹp hòi. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Dương Nghị đã xử lý việc rút lui quân binh rất tốt, bảo toàn được căn bản của quân Thục. Ông ta nghĩ rằng mình đáng lẽ sẽ thay thế vị trí của Gia Cát Lượng nhưng Lưu Thiện lại không hề chọn ông ta làm tể tướng. Dương Nghị trong khi tức giận đã nói ra lời nói như thế này “Sớm biết như thế này thì khi ấy đã đầu hàng rồi đi theo Tào Tháo cho xong”. Nghe thấy vậy, đương nhiên Lưu Thiện sẽ tiễn ông ta đi theo Tào Tháo luôn. Xem thêm Nguồn Nguồn Có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”, Gia Cát Lượng có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừngTử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói Theo truyện, năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng biết mình sắp chết trong khi sự nghiệp vẫn dở dang, ấu chúa vẫn còn nhỏ tuổi chưa cáng đáng được sự nghiệp. Ông quyết định làm phép cầm sao giữ mạng để chống lại mệnh trời hòng sống thêm 1 giáp nữa. Trong khi ông lập đàn thất tinh cần phải 7 ngày yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhưng đến ngày thứ 6, vì việc quân khẩn cấp, một tướng đã xộc vào nơi ông đang làm phép. Bởi thế việc cầm sao thất bại. Tuy nhiên dưới góc nhìn của Tử vi học, cái căn bản nhất đối với người mệnh vô chính diệu là không thể thọ được. Các sách Tử vi lưu truyền từ xưa đều có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”. Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ hơn. Tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng viết “Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông quá nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì dù sát nghiệp của ông nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số mệnh Vô chính diệu?”. Ở một sách về Tử vi khác là cuốn Tử vi thực hành thì chỉ ra rằng năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng gặp đại hạn ngộ Thái Tuế và một loạt sao xấu cho nên không thể qua được mà phải chết. Cuốn sách viết “Số Gia Cát có Tả hữu đồng cung Thái dương ở mão, Thái âm ở Hợi gọi là Nhật Nguyệt tinh minh cách, nên số cực phú quý, tài năng lỗi lạc. Năm 54 tuổi, đại hạn ngộ Thái Tuế, Thiên Thương, Hóa kỵ, Đại, tiểu hao, Kình Đà nên chết”. Gia Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao điếu khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hỏa công rất giỏi. Tại cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành danh. Dưới thời nhà Thục 221- 263, Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị tướng. Ở cung Nô Bộc của ông có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền của Gia Cát Lượng có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh với như Mã Tốc, Ngụy Diên. Khổng Minh cực kỳ giỏi về thiên văn và các tướng số cũng như phong thủy, nên trong những trận đánh cụ thể, ông đã bài binh bố trận chặt chẽ để giành những thắng lợi huy hoàng ví dụ trận Xích Bích, Tân Dã, Bái Vọng…. Khi đó, theo Lưu Bị buổi ban đầu, đất và quân không có nhiều, Gia Cát Lượng đã biết xoay chuyển tình thế, vào đất Tây Thục. Dựa vào vùng hiểm trở của đất ấy tạo ra thế chân vạc của thời Tam Quốc. Tuy nhiên, trong thuật dùng binh có những trận đánh vì đại cuộc, Gia Cát Lượng đã tiêu diệt rất nhiều sinh linh. Chính vì vậy mà tuổi thọ của Gia Cát Lượng không cao được. Là người hiểu thời thế, ông biết là vận mệnh của nhà Hán đã suy nhưng vẫn một lòng phò tá Lưu Bị dựng đại nghiệp, mặc dù biết thiên thời không đứng về phía mình. Trong cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì thường không xoay đổi được. Trước khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm 1 giáp nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng bị gió thổi vào, vì vậy mà ông không thể sống được nữa. Tương truyền đây là lá số của Khổng Minh Gia Cát Lượng Còn đây là bài luận giải của cụ Thiên Lương Ở bài trước, việc chấm phá vài nét cơ bản trong lá số Tào Tháo như một ví dụ làm rõ hơn mối quan hệ tương hỗ giữa các yêu tố “cung” và “sao” trong môn Tử vi. Hai yếu tố này được ví như hai phần “thế” và “lực” khi lượng định, xét đoán từng cung, từng đại vận, từng nội dung của lá số. Tiếp theo, bàn về chữ “thời” và sự đắc thời hay lỡ thời, lá số của Khổng Minh 181 – 234 sau Công Nguyên lại cho chúng ta một góc nhìn khác, để biết chữ “thời” quan trọng thế nào trong cuộc đời và sự nghiệp mỗi con người. Chả thế mà có câu “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công.” Đến như quân sư Khổng Minh – một kỳ nhân có tài “hô phong hoán vũ, liệu việc như thần”, được người đời sau xếp đứng đầu trong “tam tuyệt” thời Tam Quốc, trên cả hai người là Tào Tháo và Quan Vũ, cũng không thể vượt qua được chữ “thời” – như một cửa ải mang tính định mệnh này. “Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Vận tốt” Đây là câu phú mà ít ai đã quan tâm đến các môn Lý học, nhất là Tử vi lại không thuộc nằm lòng. Thật ra, không thể hạ thấp giá trị và tầm quan trọng của cung Mệnh, cung an Thân, nhưng yếu tố thời vận, tức là chữ “thời” trong lá số nhiều khi có ý nghĩa quyết định thành bại của một đời người, nhất là về hậu vận. Có những người không may có cung Mệnh, Thân bất lợi, nhưng vào tuổi trưởng thành gặp được vận tốt, thoả chí phát huy được năng lực của mình trong một bối cảnh thuận lợi, gọi là cách “Khô mộc phùng xuân” cây khô gặp được mùa xuân, với một đại vận 10 năm đắc cách cũng đã thoả nguyện lắm rồi. Trường hợp này ví như hành trình cuộc đời trên một chiếc xe yếu, công suất thấp nhưng được đi trên đường cao tốc, lại gặp mưa thuận gió hoà nên vẫn bình ổn đi đến đích. Ngược lại, Mệnh – Thân có tốt mà vận quá xấu, ví như chiếc xe to đẹp, mạnh mẽ nhưng phải đi trên con đường núi hiểm trở, nhiều mưa to bão lớn nên luôn gặp trở lực, đời nhiều thăng trầm, thành quả không có là bao; khi ấy ý chí và nỗ lực bản thân đóng vai trò quyết định. Tệ nhất là khi Mệnh, Thân đã xấu mà vận cũng xấu, khi ấy tương lại mịt mờ, suốt đời nghèo khó, gian nan vất vả, khổ nạn liên miên, sức người dù có cố làm cũng chỉ cải thiện được phần nào. Vấn đề của nhiều người là Nếu có vận tốt, liệu có biết và tận dụng được các vận hội đắc cách ấy trong cuộc đời mình, hay là để lỡ thời rồi cuối đời phải nuối tiếc, ân hận! Vậy thế nào là một “vận” tốt? Trong Tử Vi phân ra Đại vận 10 năm, niên vận 1 năm, nguyệt vận 1 tháng, nhật vận 1 ngày, thời vận 1 canh giờ. Cách thức lấy từng loại vận trong một lá số và phương pháp xét đoán vấn đề vận hạn khá phức tạp và dài dòng nên xin hẹn quý vị ở một bài chi tiết khác riêng cho vấn đề này. Ở đây xin khái lược về đoán định Đại vận; các “vận” khác về cách thức xem xét cũng không khác nhau là mấy, nhưng theo nguyên tắc “Dĩ trường chế đoản” – tức là các “vận” dài quyết định các “vận” ngắn. Đại vận tốt thì tiểu có tiểu vận có xấu cũng không quá đáng ngại; còn tiểu vận nếu rực rỡ nhưng trong một Đại vận đắc cách, như thế mới là thật sự thuận lợi và đắc thời. Khi xem xét một đại vận, cần đồng thời quan tâm đến cả 3 yếu tố Thiên thời Xét cung cần xem xét trong tam hợp cung nào? Rồi xét tam hợp cung ấy so với tam hợp tuổi theo phép sinh – khắc để đưa ra nhận định Địa lợi Xét âm – dương, ngũ hành của cung cần xem xét so với bản mệnh của mình Tốt nhất là được sinh nhập, nếu bình hoà thì tạm ổn, kém nhất là mệnh bị khắc nhập hay bị sinh xuất. Khi ấy thành quả nếu có thường không trọn vẹn, được việc này dễ hỏng việc khác, có khi sa sút, đổ vỡ hay phá sản. Nhân hoà Xét tương tác các bộ sao của cung xem “vận” có hợp với các sao ở cung Mệnh, nhất là chính tinh hay không? Chú ý các sao Tứ Hoá, lục sát tin, nhất là các sao hợp hành với bản mệnh. Khi ấy, vai trò của các sao hợp nhau thành bộ đóng vai trò quyết định. Thông thường, khi quyết đoán một vận tốt cần chí ít 2 trong 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” kể trên. Nếu may được cả 3 sẽ là vận tối hảo, nhưng trường hợp này rất hiếm. Còn lỡ khi gặp vận mất cả 3 yếu tố trên, nếu khinh xuất mà vọng động thì sẽ cầm chắc thất bại. Khi ấy, chỉ nên ẩn nhẫn chờ thời, “dĩ tĩnh chế động”, lấy tiêu chí bình ổn làm đầu để chờ cho qua vận xấu, rồi mới khởi sự làm ăn, đầu tư lớn hay các quyết định quan trọng về sự nghiệp, công danh. Quân sư Khổng Minh – người lỡ thời với đại nghiệp “phục Hán” Khổng Minh tên thật là Gia Cát Lượng, là người có tài kinh bang tế thế, một nhà chiến lược thiên tài, xuất sắc nhất trong thời Tam Quốc, đến mức người đời sau so với một thiên tài quân sự lớn khác là Tôn Tử. Từ năm 27 tuổi theo phò Lưu Bị đến khi về trời năm 54 tuổi, ông đã tận tâm tận lực giúp họ Lưu dựng lên đại nghiệp, cùng Tôn Quyền đại thắng trận Xích Bích, khiến cho Tào Tháo tơi tả, hồn xiêu phách lạc, rồi lấy Kinh Châu, định Tây Xuyên, bình Mạnh Hoạch, dưng nước ở đất Thục. Cùng với nước Nguỵ ở phía BẮc, Ngô ở phía Đông, Lưu Bị hoàn thành đế nghiệp, tạo thành thế chân vạc chia 3 thiên hạ. Thế nhưng, trời chẳng chiều người, biết vận nhà Hán đã tận mà ông vẫn cố cưỡng cầu chống đỡ đến cùng. Sáu lần tiến binh ra Kỳ Sơn dang dở, khiến cho ông lâm vào cảnh thể chất suy nhược, sức khoẻ hao tán. Đến lần thứ 6, tại gò Ngũ Thượng, biết mệnh mình sắp hết, ông đành “Sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại, đi xem hết dinh. Gió đông rát mặt, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng Từ nay ta không được ra trận nữa. Trời xanh thăm thẳm, hận này biết bao giờ nguôi!” Ông hận ai? Với nhân thế thời ấy không đối thủ, ông hận cõi cao xanh kia đã bắt mình chịu yểu mệnh, hận chữ “thời” đã không ở lại với mình, để ông có thể dốc sức hoàn thành tâm nguyện “phù Hán” một cách trọn vẹn. Theo sách sử, Khổng Minh sinh vào giờ Tuất, ngày 10/04 năm Tân Dậu năm 181 dương lịch. Lá số âm nam, mệnh Mộc, thế cục “Kim tức cục” khắc mệnh, cung mệnh ở Mùi âm Thổ cũng bị mệnh khắc, đủ thấy sự nghiệp cuộc đời ông mất phần “thiên thời” mà chủ yếu nhờ vào nỗ lực bản thân. Ông có mệnh Vô Chính Diệu, tuy đắc cách cả bộ Tả Phù – Hữu Bật nhưng không có phụ tinh hay sát tinh hợp hành mệnh làm nòng cốt, cũng không có thể “đắc tam Không” nên vướng vào trường hợp “Phi tần tắc yểu, tam vô tự” nếu không nghèo tất yểu mệnh hoặc không có con trai. Trường hợp yểu mệnh của ông chính là vì thế. Điểm đặc sắc chính là cách “Nhật Nguyệt chiếu hư không” Sao Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi chiếu lên mệnh ở cung Mùi, khiến ông trờ thành một tuyệt thế kỳ nhân, thông minh quán chúng, biết người và tỏ cả việc trời, dám đông đến thiên cơ. Cung an Thân ở cung Mão, có Thái Dương thuộc Hoả, Thiên Lương thuộc Mộc mới chính là cốt cách của ông, là thiên chức của người đảm nhận phận sự phò tá dựng nghiệp cho các bậc Vương Đế. Nhưng vì là mệnh Mộc phải sinh Hoả Thái Dương nên sự nghiệp và danh vọng càng rực sáng thì tinh khí và thể chất của ông càng sớm hao mòn, khô kiệt. Bộ sao Bệnh, Thiên Hư, Tuế Phá đóng ở cung an Thân càng làm rõ thêm điều này. Với cung Quan Lộc ở Hợi, có sao Thái Âm Thuỷ với người mệnh Mộc là tuyệt hảo, nên chức Thừa tướng với ông là chuyện quá đỗi bình thường. Nhưng cung này có bộ Cô Thần – Quả Tú và Tang Môn, Phục Binh nênoong là người cô đơn trong các ý tưởng và mưu cơ siêu việt của mình, cũng hay bị xàm tấu, ganh ghét chống phá sau lưng. Sao Thiên Mã – tượng trưng cho tài năng, nghị lực được đóng chính cung Hợi thuỷ Mã mới thực là thần diệu Nó không còn là “cùng đồ mã” ngựa hết đường chạy mà rất đắc dụng với người mệnh Mộc như ông. Cùng với sao Điếu Khách, Thanh Long ở mệnh, Hoá Quyền ở cung Tài cung an Thân, sao Thiên Mã này giúp ông trở thành nhà hùng biện, thuyết khách với văn tài xuất chúng. Xét về vận, Đại vận 44 – 53 tuổi của ông ở cung Mão – hợp với mệnh Mộc nên ông được phần “địa lợi”, tiếc rằng mất phần “thiên thời” do tam hợp Hợi, Mão, Mùi thuộc Mộc bị phía đối nghịc là cung Dậu, trong tam hợp Kim Tỵ, Dậu, Sửu khắc chế rất nặng. Đến phần “nhân hoà”, về đại cục thì có thuận lợi, nhưng lũ bất tài và bọn tiểu nhân cũng nhiều sao Bệnh, Tuế Phá, Thiên Hư, Địa Kiếp mà người mang lá số “văn cách” như ông nhiều khi khó mà trị được cho đến nơi đến chốn. Cuối đại vận này, biết mình yểu mệnh, vận số đã tận, ông thành tâm lập đàn “Nhương tinh cầu thọ” nhưng chịu thất bại, ngọn nến bản mệnh đã vụt tắt ở phút cuối. Phải chăng trong dặm dài chinh phạt thiên hạ, ông đã gây ra quá nhiều oán nghiệp Từ trận Xích Bích hàng trăm vạn người máu chảy đầu rơi, thây trôi đầy dòng Trường Giang, đến các chuyến bình Nam đã tàn sát, đốt cháy quân Man; mưu đống hang Thượng Phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý và hàng vận quân nhưng trời mưa như trút nên họ Tư Mã thoát nạn… Thật là, khi một triều đại mà khí số đã tận, tức một người dẫu quảng bác, thần thông như quân sư Gia Cát Lương cũng chỉ kéo dài được một năm hữu hạn, chứ không thể vượt lên khỏi lẽ tối thượng cho cõi cao xanh. Vậy nên có câu rằng “Cho hay thành bại ở đời, hơn nhau chỉ một chữ “thời” mà thôi!” Nguồn ST & Tổng hợp từ Internet Lượt xem Gia Cát Lượng chữ Hán 諸葛亮; bính âm Zhūgě Liàng; 181 – 234, biểu tự Khổng Minh 孔明, hiệu Ngọa Long tiên sinh 臥龍先生, là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo dục, và cũng là một nhà phát minh kỹ thuật nổi tiếng của nhà Thục Hán thời Tam Quốc. Đóng góp lớn nhất của Gia Cát Lượng là giúp Lưu Bị gây dựng nên nhà Thục Hán, hình thành thế chân vạc tam quốc, liên minh Thục-Ngô chống Ngụy. Ông được cho là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử. Tuy nhiên, năm chiến dịch đánh Tào Ngụy do ông phát động đều không thành công, cuối cùng bệnh mất trong doanh trại. Không chỉ có tài năng hơn người, ông còn nổi tiếng với tấm lòng tận trung báo quốc, “cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”. Con trai và cháu nội của Gia Cát Lượng cũng kế thừa chí nguyện bảo vệ nhà Hán của ông và đã anh dũng tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ, tạo nên tấm gương “Trung nghĩa truyền gia thế vô song, Ba đời trung liệt chiếu sử xanh” nổi tiếng lịch sử của nhà Gia Cát. Gia Cát Lượng cũng là vị quan văn duy nhất thời Tam quốc được thờ tại Đế vương miếu được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó có thời 41 vị công thần được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại. Ông khi còn sống có tước hiệu Vũ hương hầu 武乡侯, sau khi mất có thụy hiệu là Trung Vũ Hầu 忠武侯, do đó hậu thế thường hay gọi ông là Vũ Hầu 武侯 hay Gia Cát Vũ Hầu 诸葛武侯 để tỏ lòng tôn kính. Hình tượng của ông được dân gian ca tụng qua những câu chuyện lưu truyền suốt cả nghìn năm, về sau được La Quán Trung tiểu thuyết hóa và càng trở nên nổi tiếng qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, một trong Tứ đại kỳ thư của văn học Trung Hoa. Trong tác phẩm này, nhân vật Gia Cát Lượng được mô tả là một vị thừa tướng tài đức song toàn với tài năng “xuất quỷ nhập thần”, đoán mưu lập kế như thần, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, là biểu tượng của lòng trung nghĩa và trí tuệ anh minh Tuyệt nhân là Lưu Bị, tuyệt gian là Tào Tháo, tuyệt trí là Khổng Minh. Lá số Tử Vi của Gia Cát Lượng Gia Cát Lượng sinh vào năm Tân Dậu 181. Lá số trên được lập mô phỏng theo lá số gốc với các sao an giống như Lá số Tử vi của Gia Cát Lượng. Có lẽ, đây là một lá số rất nổi tiếng với Mệnh Vô Chính Diệu có Tả Hữu – Nhật Nguyệt Miếu Địa hội hợp, làm lên huyền thoại Gia Cát Lượng. Chúng ta có thể lấy lá số trên để cùng nghiệm lý những thăng trầm cuộc đời của ông cũng như tham khảo để luận giải các lá số tử vi khác. Nghiệm lý Lá số Tử Vi của Gia Cát Lượng Nói đến Khổng Minh thì khắp cõi trời Đông Nam Á và ngày nay có thể nói hầu hết thế giới đều biết và công nhận đó là một quý nhân, một vị quân sư có bộ óc suy tính không ai có thể lường trước được. Thánh Thán và Mao Tôn Cương là 2 nhà văn nổi tiếng về phê bình nhân vật của Trung Quốc đã phải chịu hạ bút là một kỳ nhân đệ nhất trong tam tuyệt thời Tam Quốc đứng trên hai người là Tào Mạnh Đức và Quan Vân Trường. Quân Sư Khổng Minh tên thực là Gia Cát Lượng sinh năm Tân Dậu ngày 10 tháng 4 và giờ Tuất. Tuổi Tân Dậu mệnh ở Mùi, Thân ở Mão là cả hai vị trí của người không được hài lòng với ý chí của mình từ thiên định mệnh cho đến ý chí phấn đấu. Phải chăng ông là người sinh ra không gặp thời, đâu phải vô tài; cái tài của ông là cái tài của một tuyệt thế kỹ nhân Tả Hữu, Thai, Thanh Long với sự thông minh quán chúng Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi đồng chiếu Mệnh vô chính diệu ở Mùi. Cốt cách của ông là Thiên Lương Mộc cùng với Thái Dương là thiên chức của người lãnh phận sự phò tá cho các vị nguyên thủ quốc gia Quân sư, Thừa tướng. Người ta thường nói Mã ở Hợi là Mã chết, Mã hết đường chạy, sự thực với Không Minh Mộc mệnh đối với cung Hợi Thủy, Mã không phải là không đắc dụng khiến ông thành mô vi ngoại trường có tài thuyết phục người ta cùng với Điếu Khách ở Mệnh, Thiên Mã này càng bồi nghị lực, ông càng thọ đắc bao nhiêu, ông càng lao tâm khó nhọc. Ông càng cố gắng mẫn tiếp Mã + Linh bao nhiêu càng đưa ông lâm vào cảnh thân thể hao mòn gần đất xa trời Mệnh Mộc tiết khí Mã – Linh. Thật là một tấm gương vĩ đại của một vị thừa tướng tận tụy về công vụ mà quên hẳn cái xác phàm nhân của mình. Người có Tả Hữu nhập Mệnh là người có tài quán xuyến mọi vấn đề, thấu hiểu cả văn lẫn võ, được Nhật Nguyệt tịnh minh hội chiếu mã Mệnh lạ ở thế vô chính diệu là một sự mênh mông bao quát, tức là có thể nói ông thấu hiểu hết thẩy sự việc tù hữu hình đến vô hình, từ vấn đề nhân sự đến thiên sự. Từ lúc còn là thư sinh bạch diện ẩn dật ở núi Ngọa Long, ông đã phân tích trình bày đủ lẽ cái thế tàn của nhà Hậu Hán để Lưu Bị biết, rồi ra cái sức chống đỡ của thế nhân cũng chỉ được phần nào tức là đất nước có gặp người tài ba khôn khéo cũng chỉ giữ được một phần ba. Cuộc gặp gỡ hai nhân vật này chứng minh một cái thể chính trị sáng suốt của Khổng Minh bằng bộ Tả Hữu, Âm Dương, Thiên Mã nói lên hết thẩy mọi sự việc của suốt một đời ông, một cái tài tuyệt luân của một vị thừa tướng, một vị quân sư điều khiển ba quân, thêm cả cái tài vô hình huyền bí là ông thấu thiên cơ, ông là một vị thánh sư về tướng số. Ông không biết sự chuyển biến của cơ trời, làm sao ông cầu được gió Đông Nam để thiêu đốt trăm vạn quân Tào ở Xích Bích. Sự cầu đảo gió này không biết ông có tài thực sự khiên thay đổi được khí trời trong cảnh trái thời tiết, hay ông tinh thông về thiên văn biết đến giờ đó có gió lạ, ông làm trò cầu đảo để khuất phục nhân tâm. Cũng như cái trò mượn 10 vạn mũi tên của Tào để bắn quân Tào Tháo. Nếu không biết ngày giờ đó có sa mù, quân Tào không dám xung trận, chỉ lấy cung tên đem ra bắn loạn sa ngầu khi có báo động, chỉ trong mấy tiếng đồ hồ ông có đủ số tên đem nạp cho Chu Du để cho quân có đủ tên bắt giết Tào khi lâm trận Xích Bích. Tôi tưởng hai sự việc này tỏ ra ông quá thấu hiểu thiên văn một cách quá tài tình. Ngụy Diên là một viên thượng tướng được liệt đứng liền sau Ngũ Hổ lúc mới bước chân vào ra mắt Huyền Đức xin quy hàng, Khổng Minh quát võ sĩ đen ra chém đầu. Ông nói người này có xương trái khớp ở gáy tức là tướng hình cảu người phản trắc không nên để. Theo tôi nghĩ không biết Khổng Minh có tài coi tướng giỏi hay không, hay chỉ là một cách hành sự răn đe kẻ làm tôi không nên ăn ở hai lòng, vì Ngụy Diên vừa mới giết chủ là Hãn Huyền đem thành Tràng Sa đến dâng cho Lưu Bị để làm món quà tiến thân. Những sự việc trên dây là sự việc đứng về phương diện vô hình huyền bí. Còn như mưu mẹo thực hư, hư thực thật không biết đâu mà lường với Khổng Minh. Bắt Tào Tháo trên con đường nhỏ Hoa Dung là một tình tiết dẫn cảnh đến Tào Tháo là một nhà quân sự có hạng cũng phải mắc kế quả là tài tình. Một đám tàn quân bại trận thì không khi nào dám ngang nghiên chạy trên đường lớn là chỗ dễ bị phục kích, tất nhiên con nhã tướng phải cho binh tháo lui theo đường hẻm mà trong đường hèm thấy khói lên, Tháo cho là nghi binh để nhử mình chạy qua đại lộ, vậy cứ tiểu lộ chạy là thoát, ai ngờ tiểu lộ nghi binh là có thật, có Quan Vân Trường đứng chặn. Tháo đành bó tay chịu trận. Những sự hành quân của Không Minh luôn luôn khiến đối phương không biết đâu mà tính. Những điều mà tôi muốn trình bày bằng lá số này là Khổng Minh coi nhân thế không đối thủ, mà đối thủ chính cống kia là cao xanh, là trời, thường đế nên Khổng Minh có ý kình phá định mệnh. Biết nhà Hán đã hết vận mà còn cố gồng gánh vác một thời gian nữa cho Lưu Bị từ một vị hoàng thân đã trở thành một thường dân làm nghề dệt chiếu bán dép có tinh thân muốn bảo tồn sự nghiệp chiếm lại được phần ba quốc thổ. Đương giữa mùa Đông rét cóng chỉ có gió bắc lạnh lẽo làm sao có được gió Đông Nam. Ông cầu đảo mã được chẳng là tài cướp được quyền tạo hóa làm cho đại đô đốc Đông Ngô là Chu Du kinh hãi phải than rằng người này có phép cướp quyền trời đất. Nếu để sống ắt gây tai họa cho Đông Ngô, ta phải giết ngay đi để dứt mối lo sau này. Biết Mệnh mình đã hết, cố tình nhương tinh cầu thọ lấy thêm 12 năm nữa và vụ đốt hang thượng phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý trong đó có Tư Mã Chiêu là cha của Tư Mã Viêm sau này thành Tấn Võ Đế thống nhất đất nước. Trong lúc lửa cháy bốn bề, địa lôi nổ tung từng đám đất thì trời mưa như trút nước. Người đời sau đã có câu Địa lôi sao chống lại được Thiên lôi. Những sự việc này Khổng Minh cố thực hiện mà không thành chẳng qua là đã có định mệnh là cái vị trí của Thân ông ở Mão Tuế Phá. Ông quật khởi chống hẳn tạo hóa đi ngược lại, định Mẹnh không cho phép ông thỏa mãn tực là vị trí Hợi Mão Mùi của người Tỵ Dậu Sửu nếu là thường nhân dễ gây lên loạn ý làm sằng. Đem Quản Di Ngô và Khương Tử Nha ra sánh với Khổng Minh là một việc khó trình bày vì 2 ông này là người gặp thời phò chúa cũng có thời là Tề Hoãn Công. Xin lưu ý Trên đây chỉ là một vài nét chấm phá nghiệm lý về Lá số Tử Vi của Khổng Minh Gia Cát Lượng để các bạn tham khảo qua, không phải phần luận giải chuyên sâu, chưa đầy đủ luận giải. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo. -Bài viết tham khảo thêm- Nghiệm Lý Lá Số Người Không Lập Gia Đình Nghiệm Lý Lá Số Tham Vũ Đồng Hành – Thành Công Trong Thương Trường Lá Số Người Tu Hành – Xuất Gia Nghiệm Lý Lá Số Vô Chính Diệu Đắc Cách Của Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn Lá Số Người Có Căn Đồng Số Lính -Thầy Phúc Hùng Tử Vi-Điện thoại 0913 563 536 Địa chỉ Phan Trọng Tuệ - Thanh Trì - Hà Nội Đặt lịch luận giải lá số tử vi chuyên sâu Theo truyện, năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng biết mình sắp chết trong khi sự nghiệp vẫn dở dang, ấu chúa vẫn còn nhỏ tuổi chưa cáng đáng được sự nghiệp. Ông quyết định làm phép cầm sao giữ mạng để chống lại mệnh trời hòng sống thêm 1 giáp nữa. Trong khi ông lập đàn thất tinh cần phải 7 ngày yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhưng đến ngày thứ 6, vì việc quân khẩn cấp, một tướng đã xộc vào nơi ông đang làm phép. Bởi thế việc cầm sao thất nhiên dưới góc nhìn của Tử vi học, cái căn bản nhất đối với người mệnh vô chính diệu là không thể thọ được. Các sách Tử vi lưu truyền từ xưa đều có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”. Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng viết “Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông quá nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì dù sát nghiệp của ông nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số mệnh Vô chính diệu?”.Ở một sách về Tử vi khác là cuốn Tử vi thực hành thì chỉ ra rằng năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng gặp đại hạn ngộ Thái Tuế và một loạt sao xấu cho nên không thể qua được mà phải chết. Cuốn sách viết “Số Gia Cát có Tả hữu đồng cung Thái dương ở mão, Thái âm ở Hợi gọi là Nhật Nguyệt tinh minh cách, nên số cực phú quý, tài năng lỗi lạc. Năm 54 tuổi, đại hạn ngộ Thái Tuế, Thiên Thương, Hóa kỵ, Đại, tiểu hao, Kình Đà nên chết”.Gia Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao điếu khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hỏa công rất cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành danh. Dưới thời nhà Thục 221- 263, Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị cung Nô Bộc của ông có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền của Gia Cát Lượng có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh với như Mã Tốc, Ngụy Diên.Khổng Minh cực kỳ giỏi về thiên văn và các tướng số cũng như phong thủy, nên trong những trận đánh cụ thể, ông đã bài binh bố trận chặt chẽ để giành những thắng lợi huy hoàng ví dụ trận Xích Bích, Tân Dã, Bái Vọng…. Khi đó, theo Lưu Bị buổi ban đầu, đất và quân không có nhiều, Gia Cát Lượng đã biết xoay chuyển tình thế, vào đất Tây Thục. Dựa vào vùng hiểm trở của đất ấy tạo ra thế chân vạc của thời Tam Quốc. Tuy nhiên, trong thuật dùng binh có những trận đánh vì đại cuộc, Gia Cát Lượng đã tiêu diệt rất nhiều sinh linh. Chính vì vậy mà tuổi thọ của Gia Cát Lượng không cao được. Là người hiểu thời thế, ông biết là vận mệnh của nhà Hán đã suy nhưng vẫn một lòng phò tá Lưu Bị dựng đại nghiệp, mặc dù biết thiên thời không đứng về phía cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì thường không xoay đổi khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm 1 giáp nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng bị gió thổi vào, vì vậy mà ông không thể sống được truyền đây là lá số của Khổng Minh Gia Cát LượngCòn đây là bài luận giải của cụ Thiên LươngỞ bài trước, việc chấm phá vài nét cơ bản trong lá số Tào Tháo như một ví dụ làm rõ hơn mối quan hệ tương hỗ giữa các yêu tố “cung” và “sao” trong môn Tử vi. Hai yếu tố này được ví như hai phần “thế” và “lực” khi lượng định, xét đoán từng cung, từng đại vận, từng nội dung của lá số. Tiếp theo, bàn về chữ “thời” và sự đắc thời hay lỡ thời, lá số của Khổng Minh 181 – 234 sau Công Nguyên lại cho chúng ta một góc nhìn khác, để biết chữ “thời” quan trọng thế nào trong cuộc đời và sự nghiệp mỗi con người. Chả thế mà có câu “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công.” Đến như quân sư Khổng Minh – một kỳ nhân có tài “hô phong hoán vũ, liệu việc như thần”, được người đời sau xếp đứng đầu trong “tam tuyệt” thời Tam Quốc, trên cả hai người là Tào Tháo và Quan Vũ, cũng không thể vượt qua được chữ “thời” – như một cửa ải mang tính định mệnh này.“Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Vận tốt”Đây là câu phú mà ít ai đã quan tâm đến các môn Lý học, nhất là Tử vi lại không thuộc nằm lòng. Thật ra, không thể hạ thấp giá trị và tầm quan trọng của cung Mệnh, cung an Thân, nhưng yếu tố thời vận, tức là chữ “thời” trong lá số nhiều khi có ý nghĩa quyết định thành bại của một đời người, nhất là về hậu vận. Có những người không may có cung Mệnh, Thân bất lợi, nhưng vào tuổi trưởng thành gặp được vận tốt, thoả chí phát huy được năng lực của mình trong một bối cảnh thuận lợi, gọi là cách “Khô mộc phùng xuân” cây khô gặp được mùa xuân, với một đại vận 10 năm đắc cách cũng đã thoả nguyện lắm rồi. Trường hợp này ví như hành trình cuộc đời trên một chiếc xe yếu, công suất thấp nhưng được đi trên đường cao tốc, lại gặp mưa thuận gió hoà nên vẫn bình ổn đi đến đích. Ngược lại, Mệnh – Thân có tốt mà vận quá xấu, ví như chiếc xe to đẹp, mạnh mẽ nhưng phải đi trên con đường núi hiểm trở, nhiều mưa to bão lớn nên luôn gặp trở lực, đời nhiều thăng trầm, thành quả không có là bao; khi ấy ý chí và nỗ lực bản thân đóng vai trò quyết định. Tệ nhất là khi Mệnh, Thân đã xấu mà vận cũng xấu, khi ấy tương lại mịt mờ, suốt đời nghèo khó, gian nan vất vả, khổ nạn liên miên, sức người dù có cố làm cũng chỉ cải thiện được phần nào. Vấn đề của nhiều người là Nếu có vận tốt, liệu có biết và tận dụng được các vận hội đắc cách ấy trong cuộc đời mình, hay là để lỡ thời rồi cuối đời phải nuối tiếc, ân hận!Vậy thế nào là một “vận” tốt? Trong Tử Vi phân ra Đại vận 10 năm, niên vận 1 năm, nguyệt vận 1 tháng, nhật vận 1 ngày, thời vận 1 canh giờ. Cách thức lấy từng loại vận trong một lá số và phương pháp xét đoán vấn đề vận hạn khá phức tạp và dài dòng nên xin hẹn quý vị ở một bài chi tiết khác riêng cho vấn đề này. Ở đây xin khái lược về đoán định Đại vận; các “vận” khác về cách thức xem xét cũng không khác nhau là mấy, nhưng theo nguyên tắc “Dĩ trường chế đoản” – tức là các “vận” dài quyết định các “vận” ngắn. Đại vận tốt thì tiểu có tiểu vận có xấu cũng không quá đáng ngại; còn tiểu vận nếu rực rỡ nhưng trong một Đại vận đắc cách, như thế mới là thật sự thuận lợi và đắc thời. Khi xem xét một đại vận, cần đồng thời quan tâm đến cả 3 yếu tốThiên thời Xét cung cần xem xét trong tam hợp cung nào? Rồi xét tam hợp cung ấy so với tam hợp tuổi theo phép sinh – khắc để đưa ra nhận địnhĐịa lợi Xét âm – dương, ngũ hành của cung cần xem xét so với bản mệnh của mình Tốt nhất là được sinh nhập, nếu bình hoà thì tạm ổn, kém nhất là mệnh bị khắc nhập hay bị sinh xuất. Khi ấy thành quả nếu có thường không trọn vẹn, được việc này dễ hỏng việc khác, có khi sa sút, đổ vỡ hay phá hoà Xét tương tác các bộ sao của cung xem “vận” có hợp với các sao ở cung Mệnh, nhất là chính tinh hay không? Chú ý các sao Tứ Hoá, lục sát tin, nhất là các sao hợp hành với bản mệnh. Khi ấy, vai trò của các sao hợp nhau thành bộ đóng vai trò quyết thường, khi quyết đoán một vận tốt cần chí ít 2 trong 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” kể trên. Nếu may được cả 3 sẽ là vận tối hảo, nhưng trường hợp này rất hiếm. Còn lỡ khi gặp vận mất cả 3 yếu tố trên, nếu khinh xuất mà vọng động thì sẽ cầm chắc thất bại. Khi ấy, chỉ nên ẩn nhẫn chờ thời, “dĩ tĩnh chế động”, lấy tiêu chí bình ổn làm đầu để chờ cho qua vận xấu, rồi mới khởi sự làm ăn, đầu tư lớn hay các quyết định quan trọng về sự nghiệp, công sư Khổng Minh – người lỡ thời với đại nghiệp “phục Hán”Khổng Minh tên thật là Gia Cát Lượng, là người có tài kinh bang tế thế, một nhà chiến lược thiên tài, xuất sắc nhất trong thời Tam Quốc, đến mức người đời sau so với một thiên tài quân sự lớn khác là Tôn Tử. Từ năm 27 tuổi theo phò Lưu Bị đến khi về trời năm 54 tuổi, ông đã tận tâm tận lực giúp họ Lưu dựng lên đại nghiệp, cùng Tôn Quyền đại thắng trận Xích Bích, khiến cho Tào Tháo tơi tả, hồn xiêu phách lạc, rồi lấy Kinh Châu, định Tây Xuyên, bình Mạnh Hoạch, dưng nước ở đất Thục. Cùng với nước Nguỵ ở phía BẮc, Ngô ở phía Đông, Lưu Bị hoàn thành đế nghiệp, tạo thành thế chân vạc chia 3 thiên hạ. Thế nhưng, trời chẳng chiều người, biết vận nhà Hán đã tận mà ông vẫn cố cưỡng cầu chống đỡ đến cùng. Sáu lần tiến binh ra Kỳ Sơn dang dở, khiến cho ông lâm vào cảnh thể chất suy nhược, sức khoẻ hao tán. Đến lần thứ 6, tại gò Ngũ Thượng, biết mệnh mình sắp hết, ông đành “Sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại, đi xem hết dinh. Gió đông rát mặt, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng Từ nay ta không được ra trận nữa. Trời xanh thăm thẳm, hận này biết bao giờ nguôi!” Ông hận ai? Với nhân thế thời ấy không đối thủ, ông hận cõi cao xanh kia đã bắt mình chịu yểu mệnh, hận chữ “thời” đã không ở lại với mình, để ông có thể dốc sức hoàn thành tâm nguyện “phù Hán” một cách trọn sách sử, Khổng Minh sinh vào giờ Tuất, ngày 10/04 năm Tân Dậu năm 181 dương lịch. Lá số âm nam, mệnh Mộc, thế cục “Kim tức cục” khắc mệnh, cung mệnh ở Mùi âm Thổ cũng bị mệnh khắc, đủ thấy sự nghiệp cuộc đời ông mất phần “thiên thời” mà chủ yếu nhờ vào nỗ lực bản thân. Ông có mệnh Vô Chính Diệu, tuy đắc cách cả bộ Tả Phù – Hữu Bật nhưng không có phụ tinh hay sát tinh hợp hành mệnh làm nòng cốt, cũng không có thể “đắc tam Không” nên vướng vào trường hợp “Phi tần tắc yểu, tam vô tự” nếu không nghèo tất yểu mệnh hoặc không có con trai. Trường hợp yểu mệnh của ông chính là vì thế. Điểm đặc sắc chính là cách “Nhật Nguyệt chiếu hư không” Sao Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi chiếu lên mệnh ở cung Mùi, khiến ông trờ thành một tuyệt thế kỳ nhân, thông minh quán chúng, biết người và tỏ cả việc trời, dám đông đến thiên cơ. Cung an Thân ở cung Mão, có Thái Dương thuộc Hoả, Thiên Lương thuộc Mộc mới chính là cốt cách của ông, là thiên chức của người đảm nhận phận sự phò tá dựng nghiệp cho các bậc Vương Đế. Nhưng vì là mệnh Mộc phải sinh Hoả Thái Dương nên sự nghiệp và danh vọng càng rực sáng thì tinh khí và thể chất của ông càng sớm hao mòn, khô kiệt. Bộ sao Bệnh, Thiên Hư, Tuế Phá đóng ở cung an Thân càng làm rõ thêm điều cung Quan Lộc ở Hợi, có sao Thái Âm Thuỷ với người mệnh Mộc là tuyệt hảo, nên chức Thừa tướng với ông là chuyện quá đỗi bình thường. Nhưng cung này có bộ Cô Thần – Quả Tú và Tang Môn, Phục Binh nênoong là người cô đơn trong các ý tưởng và mưu cơ siêu việt của mình, cũng hay bị xàm tấu, ganh ghét chống phá sau lưng. Sao Thiên Mã – tượng trưng cho tài năng, nghị lực được đóng chính cung Hợi thuỷ Mã mới thực là thần diệu Nó không còn là “cùng đồ mã” ngựa hết đường chạy mà rất đắc dụng với người mệnh Mộc như ông. Cùng với sao Điếu Khách, Thanh Long ở mệnh, Hoá Quyền ở cung Tài cung an Thân, sao Thiên Mã này giúp ông trở thành nhà hùng biện, thuyết khách với văn tài xuất chúng. Xét về vận, Đại vận 44 – 53 tuổi của ông ở cung Mão – hợp với mệnh Mộc nên ông được phần “địa lợi”, tiếc rằng mất phần “thiên thời” do tam hợp Hợi, Mão, Mùi thuộc Mộc bị phía đối nghịc là cung Dậu, trong tam hợp Kim Tỵ, Dậu, Sửu khắc chế rất nặng. Đến phần “nhân hoà”, về đại cục thì có thuận lợi, nhưng lũ bất tài và bọn tiểu nhân cũng nhiều sao Bệnh, Tuế Phá, Thiên Hư, Địa Kiếp mà người mang lá số “văn cách” như ông nhiều khi khó mà trị được cho đến nơi đến đại vận này, biết mình yểu mệnh, vận số đã tận, ông thành tâm lập đàn “Nhương tinh cầu thọ” nhưng chịu thất bại, ngọn nến bản mệnh đã vụt tắt ở phút cuối. Phải chăng trong dặm dài chinh phạt thiên hạ, ông đã gây ra quá nhiều oán nghiệp Từ trận Xích Bích hàng trăm vạn người máu chảy đầu rơi, thây trôi đầy dòng Trường Giang, đến các chuyến bình Nam đã tàn sát, đốt cháy quân Man; mưu đống hang Thượng Phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý và hàng vận quân nhưng trời mưa như trút nên họ Tư Mã thoát nạn… Thật là, khi một triều đại mà khí số đã tận, tức một người dẫu quảng bác, thần thông như quân sư Gia Cát Lương cũng chỉ kéo dài được một năm hữu hạn, chứ không thể vượt lên khỏi lẽ tối thượng cho cõi cao xanh. Vậy nên có câu rằng “Cho hay thành bại ở đời, hơn nhau chỉ một chữ “thời” mà thôi!” Trân trọng! Cảm ơn bạn đã luôn theo dõi các bài viết trên Website của chúng tôi! Quay lại "Blog tử vi" Quay lại "Trang chủ"Tử vi số mệnh Lượt xem 19792 view 6 cặp con giáp đại kỵ, hễ lấy nhau là nghèo khổ cả đời Lượt xem 11792 view Những người sinh vào giờ Sửu 1am đến 3am và những người sinh vào giờ Mùi 1pm đến 3pm đều có số Thân cư Phúc Đức. Trước khi nói đến những nét đặc biệt của mẫu người này chúng ta hãy bàn qua vài ý nghĩa căn bản của cung Phúc Đức. Trong những chương trước chúng ta có nhắc đến một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung nào thì cung đó trở thành lãnh vực chính Lượt xem 5040 view Tử vi tuần mới của 12 con giáp từ ngày 16/9 đến 22/9/2019nói rằng vận trình công danh sự nghiệp của người tuổi Tý sẽ đạt được nhiều thành công ngoài mong đợi. Bản mệnh được quý nhân nâng đỡ, có nhiều cơ hội để thể hiện năng lực của mình với cấp trên. Nếu biết tận dụng cơ hội tốt thì khả năng thăng tiến trong công việc là rất lớn. Đây là điểm tốt đẹp nhất trong tuần Lượt xem 4832 view Tử vi 12 con giáp thứ 4 ngày 25/3/2020 tuổi Tý Lượt xem 4704 view 5 con giáp có số làm đại gia nhất Lượt xem 4640 view Dưới đây là tử vi thứ Tư ngày 22/4/2020 của 12 con giáp, tuổi Dần vướng phải họa thị phi. Tuổi Tỵ đón nhận nhiều tin vui về công việc lẫn tình cảm. Lượt xem 4240 view Tử vi tài lộc tháng âm lịch này của 12 con giáp sẽ diễn biến như thế nào. Hãy cùng Tử Vi Cổ Học khám phá tử vi tài lộc của 12 con giáp bên dưới đây. Lá số tử vi Khổng Minh- Gia Cát LượngCó câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”, Gia Cát Lượng có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng

tử vi gia cát lượng